Romani 3 – NTLR & VCB

Nouă Traducere În Limba Română

Romani 3:1-31

Credincioșia lui Dumnezeu

1Care este, atunci, superioritatea iudeului sau care este folosul circumciziei? 2Acesta este mare în toate privințele! Mai întâi, pentru că lor le‑au fost încredințate cuvintele2 Gr.: loghia. Termenul apare de patru ori în NT și face trimitere la rostirile din vechime primite de poporul Israel de la Dumnezeu. Vezi F.A. 7:38; Evr. 5:12; 1 Pet. 4:11. lui Dumnezeu. 3Și ce dacă unii n‑au crezut?! Va desființa oare necredincioșia lor credincioșia lui Dumnezeu? 4În niciun caz! Dimpotrivă, Dumnezeu să fie găsit adevărat și fiecare om să fie găsit mincinos, după cum este scris:

„Așa încât Tu să fii găsit drept în cuvintele Tale

și să fii învingător când judeci.“4 Vezi Ps. 51:4. Sau când ești judecat.

5Dar dacă nedreptatea noastră pune în lumină dreptatea lui Dumnezeu, ce vom zice? Nu cumva este nedrept Dumnezeu când aduce mânia? Vorbesc în felul oamenilor. 6În niciun caz! Altfel, cum va judeca Dumnezeu lumea? 7Iar dacă, prin minciuna mea, adevărul lui Dumnezeu sporește spre slava Lui, atunci de ce sunt judecat ca păcătos? 8Și de ce să nu facem rele, ca să vină cele bune, așa cum suntem vorbiți de rău și cum susțin unii despre noi că spunem? Condamnarea lor este dreaptă!

Niciun om nu este drept

9Ce urmează atunci? Suntem noi mai buni?9 Sau: Suntem noi mai prejos? Expresia în limba greacă ne permite să traducem atât cu referire la iudei, cu sens pozitiv (mai buni), cât și cu referire la neamuri, cu sens negativ (mai prejos). Nicidecum! Căci i‑am acuzat deja pe toți – atât pe iudei, cât și pe greci – că sunt sub păcat, 10după cum este scris:

„Nu există niciun om drept, niciunul măcar!

11Nu există niciunul care să aibă pricepere!

Nu există niciunul care să‑L caute pe Dumnezeu!

12Toți s‑au rătăcit,

cu toții au devenit buni de nimic!

Nu mai există niciunul care să facă binele,

niciunul măcar!12 Pavel citează din LXX (Ps. 14:1-3; 53:1-3; Ecl. 7:20).

13Gâtlejul le este un mormânt deschis;

cu limbile lor înșală;13 Vezi Ps. 5:9.

sub buzele lor este venin de viperă;13 Vezi Ps. 140:3.

14gura le este plină de blestem și amărăciune;14 Vezi Ps. 10:7.

15picioarele lor sunt grabnice să verse sânge.

16Pe căile lor se află prăpădul și nenorocirea

17și n‑au cunoscut calea păcii.17 Vezi Is. 59:7-8.

18Nu este frică de Dumnezeu înaintea ochilor lor!“18 Vezi Ps. 36:1.

19Dar știm că tot ce spune Legea, le spune celor ce sunt sub Lege, pentru ca orice gură să fie închisă și întreaga lume să fie găsită răspunzătoare înaintea lui Dumnezeu. 20Căci „niciun om nu va fi îndreptățit înaintea Lui“20 Vezi Ps. 143:2. prin faptele Legii, deoarece, prin Lege, vine cunoașterea păcatului.

Dreptatea lui Dumnezeu prin credință

21Dar acum a fost arătată o dreptate a lui Dumnezeu, fără Lege, despre care se mărturisește prin Lege și Profeți21 Adică Vechiul Testament, care era împărțit în trei secțiuni: Legea (Moise), Profeții și Scrierile. Vezi, de ex., Gen. 15:6; Ps. 32:1-2; Hab. 2:4., 22și anume dreptatea lui Dumnezeu prin credința în Isus Cristos, pentru toți cei ce cred. Căci nu este nicio deosebire. 23Căci toți au păcătuit și sunt lipsiți de slava lui Dumnezeu, 24fiind îndreptățiți fără plată, prin harul Lui, prin răscumpărarea care este în Cristos Isus, 25pe Care Dumnezeu L‑a înfățișat drept loc al ispășirii25 Gr.: hilasterion. Termenul este întâlnit de două ori în NT (vezi și Evr. 9:5) și face trimitere la Capacul (Locul) Ispășirii (vezi Ex. 25:17-22; termenul ebraic pentru Capacul Ispășirii poate fi tradus și cu Locul Ispășirii/Răscumpărării; Locul Milei; Locul Iertării– locul în care marele preot stropea cu sânge în Ziua Ispășirii în vederea iertării poporului de păcate). prin credința în sângele Lui, ca dovadă a dreptății Sale, căci Dumnezeu, în îngăduința Sa, trecuse cu vederea păcatele săvârșite înainte, 26pentru ca, în vremea de acum, să‑Și dovedească dreptatea, în așa fel încât El să fie drept și să‑l îndreptățească totodată pe cel ce are credință în Isus.

27Și atunci, unde este lauda? A fost înlăturată! Prin ce fel de lege? A faptelor? Nu, ci prin legea credinței, 28deoarece noi considerăm că omul este îndreptățit prin credință, fără faptele Legii. 29Sau Dumnezeu este doar al iudeilor? Nu este și al neamurilor? Da, este și al neamurilor, 30întrucât este un singur Dumnezeu, Care îi va îndreptăți, prin credință, pe cei circumciși și, tot prin credință, și pe cei necircumciși. 31Atunci, oare desființăm noi Legea prin credință? În niciun caz! Dimpotrivă, noi susținem Legea.

Vietnamese Contemporary Bible

Rô-ma 3:1-31

Sự Thành Tín của Đức Chúa Trời

1Vậy người Do Thái hưởng đặc ân gì của Đức Chúa Trời? Lễ cắt bì có giá trị gì? 2Thưa, họ hưởng đủ thứ đặc ân. Trước hết, Do Thái là dân tộc được ủy thác thông điệp Đức Chúa Trời truyền cho loài người.

3Nếu có người Do Thái thất tín, không vâng phục Đức Chúa Trời, chẳng lẽ vì thế mà Ngài thất tín sao? 4Tuyệt đối không! Vì chỉ có loài người mới lật lừa dối trá, còn Đức Chúa Trời luôn luôn chân thật, như Thánh Kinh chép về Ngài:

“Lời Chúa luôn công bằng trong lời Ngài phán,

và Ngài đắc thắng khi bị xét đoán.”3:4 Thi 51:4

5Có vài người nói: “Nhưng tội lỗi chúng ta làm nổi bật đức công chính của Đức Chúa Trời. Có phải như thế là bất công khi Ngài hình phạt chúng ta không?” (Theo lập luận của một vài người). 6Tuyệt đối không! Vì nếu Đức Chúa Trời bất công thì còn xét xử được thế gian sao? 7Cũng theo lập luận trên, có người thắc mắc: nếu sự lừa dối của tôi làm sáng tỏ đức chân thật của Đức Chúa Trời, sao tôi còn bị Ngài xét xử như người có tội? 8Lập luận kiểu ấy, chẳng khác gì bảo: “Gieo ác sẽ gặt thiện!” Thế mà có người dám nói chúng tôi cũng giảng dạy như thế! Họ xứng đáng bị phán xét.

Cả Nhân Loại Đều Là Tội Nhân

9Vậy người Do Thái có lương thiện hơn các dân tộc khác không? Hẳn là không, vì như chúng ta vừa trình bày, người Do Thái và Dân Ngoại đều ở dưới quyền lực của tội. 10Như Thánh Kinh chép:

“Chẳng một người nào công chính—

dù chỉ một người thôi.

11Chẳng có ai hiểu biết Đức Chúa Trời;

không ai tìm kiếm Ngài

12Mọi người đều trở mặt;

đi vào đường lầm lạc.

Chẳng một ai làm lành,

dù một người cũng không.”3:12 Thi 14:1-3; 53:1-3

13“Họng họ hôi hám thô tục, như cửa mộ bốc mùi hôi thối.

Lưỡi họ chuyên lừa dối.

Môi chứa nọc rắn hổ.”3:13 Thi 5:9

14“Miệng phun lời nguyền rủa cay độc.”3:14 Thi 10:7

15“Họ nhanh chân đi giết người.

16Đến đâu cũng để lại vết điêu tàn, khốn khổ.

17Họ chẳng biết con đường hạnh phúc, an lành.”3:17 Ysai 59:7-8

18“Cũng chẳng nể nang, kính sợ Đức Chúa Trời.”3:18 Thi 36:1

19Chúng ta biết mọi điều luật pháp đòi hỏi đều áp dụng cho những người sống dưới luật pháp, nên chẳng ai có thể chạy tội và cả nhân loại sẽ bị Đức Chúa Trời xét xử. 20Chiếu theo luật pháp, chẳng ai được kể là công chính, vô tội trước mặt Đức Chúa Trời, vì luật pháp chỉ giúp con người biết mình có tội.

Chúa Cứu Thế Gánh Hình Phạt Thay cho Chúng Ta

21Nhưng ngày nay, Đức Chúa Trời công bố phương pháp trở nên công chính với Ngài mà không nhờ luật pháp. Ngay luật pháp Môi-se và các tiên tri cũng xác nhận điều ấy. 22Chúng ta được kể là công chính bởi đặt đức tin trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Sự thật này cho mọi người tin, không phân biệt một ai.

23Vì mọi người đều phạm tội; tất cả chúng ta đều thiếu hụt vinh quang Đức Chúa Trời. 24Nhưng Đức Chúa Trời ban ơn, rộng lòng tha thứ, kể chúng ta là công chính, do công lao cứu chuộc bằng máu của Chúa Cứu Thế Giê-xu. 25Đức Chúa Trời đã cho Chúa Giê-xu như sinh tế chuộc tội chúng ta, những người tin cậy máu Ngài. Việc cứu chuộc này chứng tỏ đức công chính của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi loài người trong quá khứ và hiện tại. Trong quá khứ, Ngài nhẫn nhục bỏ qua tội lỗi. 26Trong hiện tại, Ngài cũng bày tỏ sự công chính của Ngài. Đức Chúa Trời cho thấy Ngài là công chính và là Đấng xưng công chính cho tội nhân khi họ tin nơi Chúa Giê-xu.

27Vậy con người có lý do nào để tự hào không? Tuyệt đối không! Vì nhờ đức tin mà chúng ta được cứu, không phải do việc làm. 28Chúng tôi xin xác nhận: Con người được kể là công chính bởi đức tin, chứ không phải vì vâng giữ luật pháp.

29Phải chăng Đức Chúa Trời chỉ là Đức Chúa Trời của người Do Thái? Chẳng phải Ngài cũng là Đức Chúa Trời của Dân Ngoại nữa sao? Dĩ nhiên, Ngài cũng là Chúa của Dân Ngoại nữa. 30Vì chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhất, Ngài xưng công chính cho người bởi đức tin cả người Do Thái lẫn Dân Ngoại. 31Đã có đức tin, chúng ta nên hủy bỏ luật pháp không? Chẳng bao giờ! Ngược lại, nhờ đức tin mà luật pháp được vững vàng.