E-xơ-ra 1:1-11, E-xơ-ra 2:1-67 VCB

E-xơ-ra 1:1-11

Si-ru Cho Phép Dân Lưu Đày Hồi Hương

Vào năm thứ nhất triều Si-ru, vua Ba Tư, lời tiên tri của Giê-rê-mi được ứng nghiệm. Chúa Hằng Hữu giục lòng vua ra tuyên cáo trong khắp đế quốc, nội dung như sau:

“Si-ru, vua Ba Tư, tuyên cáo:

Đức Chúa Trời Hằng Hữu đã cho ta các vương quốc tại trần gian này. Nay Chúa phán ta xây Đền Thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem, thuộc Giu-đa. Các con dân của Chúa đều được phép trở về Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa cất lại Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của Ít-ra-ên, và của Giê-ru-sa-lem. Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước lành cho tất cả con dân Chúa. Những người Giu-đa sinh sống rải rác khắp nơi phải được dân bản xứ giúp đỡ, bằng cách cung cấp vàng, bạc, của cải và súc vật; cùng những lễ vật người địa phương tự nguyện dâng hiến cho Đền Thờ của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.”

Đức Chúa Trời làm cho tinh thần của các trưởng tộc Giu-đa và Bên-gia-min, cùng các thầy tế lễ người Lê-vi, được phấn chấn; họ đứng lên, trở về Giê-ru-sa-lem xây lại Đền Thờ của Đức Chúa Trời. Dân bản xứ đem những vật bằng vàng, bạc, của cải, súc vật, và những vật quý khác—cùng những lễ vật tự nguyện hiến dâng cho đền thờ—cho người Giu-đa.

Vua Si-ru cũng giao lại cho người Giu-đa các dụng cụ từ Đền Thờ Chúa Hằng Hữu tại Giê-ru-sa-lem đã bị Nê-bu-cát-nết-sa lấy đem về Ba-by-lôn và để trong đền thần mình. Vua Si-ru còn ra lệnh cho Mít-rê-đát, thủ quỹ của Ba Tư, trích kho một số bảo vật đem biếu Sết-ba-xa, nhà lãnh đạo Giu-đa. Các bảo vật gồm có:

đĩa vàng lớn 30 cái

đĩa bạc lớn 1.000 cái

lư hương 29 cái

bát vàng 30 cái

bát bạc 410 cái

các bảo vật khác 1.000 cái.

Tất cả có đến 5.400 bảo vật vàng và bạc. Sết-ba-xa đem các bảo vật này theo khi cùng đoàn người lưu đày từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem.

Read More of E-xơ-ra 1

E-xơ-ra 2:1-67

Danh Sách Những Người Hồi Hương

Đây là danh sách những người Giu-đa trở về Giê-ru-sa-lem và các thành phố Giu-đa khác, sau những năm tháng bị vua Nê-bu-cát-nết-sa lưu đày qua Ba-by-lôn. Các nhà lãnh đạo gồm có: Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-bạt, Biết-vai, Rê-hum, và Ba-a-na.

Các nam đinh Ít-ra-ên gồm có:

Họ Pha-rốt 2.172 người.

Họ Sê-pha-ti-gia 372 người.

Họ A-ra 775 người.

Họ Pha-hát Mô-áp (con cháu của Giê-sua và Giô-áp) 2.812 người.

Họ Ê-lam 1.254 người.

Họ Xát-tu 945 người.

Họ Xác-cai 760 người.

Họ Ba-ni 642 người.

Họ Bê-bai 623 người.

Họ A-gát 1.222 người.

Họ A-đô-ni-cam 666 người.

Họ Biết-vai 2.056 người.

Họ A-đin 454 người.

Họ A-te (con cháu Ê-xê-chia) 98 người.

Họ Bết-sai 323 người.

Họ Giô-ra 112 người.

Họ Ha-sum 223 người.

Họ Ghi-ba 95 người.

Họ Bết-lê-hem: 123 người.

Người Nê-tô-pha 56 người.

Người A-na-tốt 128 người.

Người Ách-ma-vết 42 người.

Người Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt 743 người.

Người Ra-ma và Ghê-ba 621 người.

Người Mích-ma 122 người.

Người Bê-tên và A-hi 223 người.

Công dân Nê-bô 52 người.

Công dân Mác-bích 156 người.

Công dân Ê-lam khác 1.254 người.

Công dân Ha-rim 320 người.

Công dân Lô-đơ, Ha-đi, và Ô-nô 725 người.

Công dân Giê-ri-cô 345 người.

Công dân Sê-na 3.630 người.

Các thầy tế lễ gồm có:

Họ Giê-đa-gia (thuộc nhà Giê-sua) 973 người.

Họ Y-mê 1.052 người.

Họ Pha-su-rơ 1.247 người.

Họ Ha-rim 1.017 người.

Người Lê-vi gồm có:

Họ Giê-sua và Cát-mi-ên (con cháu Hô-đa-via) 74 người.

Các ca sĩ thuộc họ A-sáp 128 người.

Con cháu những người gác cổng thuộc họ Sa-lum, họ A-te, họ Thanh-môn, họ A-cúp, họ Ha-ti-ta, và họ Sô-bai 139 người.

Những người phục dịch Đền Thờ gồm có:

Họ Xi-ha, họ Ha-su-pha, họ Ta-ba-ốt,

họ Kê-rốt, họ Sia-ha, họ Ba-đôn,

họ Lê-ba-na, họ Ha-ga-ba, họ A-cúp,

họ Ha-gáp, họ Sam-lai, họ Ha-nan,

họ Ghi-đên, họ Ga-cha, họ Rê-a-gia,

họ Rê-xin, họ Nê-cô-đa, họ Ga-xam,

họ U-xa, họ Pha-sê-a, họ Bê-sai,

họ A-sê-na, họ Mê-u-nim, họ Nê-phu-sim,

họ Bác-búc, họ Ha-cu-pha, họ Ha-rua,

họ Ba-lút, họ Mê-hi-đa, họ Hạc-sa,

họ Bạt-cô, họ Si-sê-ra, họ Tha-mác,

họ Nê-xia, và họ Ha-ti-pha.

Con cháu các cựu thần của Sa-lô-môn gồm có:

Họ Sô-tai, họ Hát-sô-phê-rết, họ Phê-ru-đa,

họ Gia-a-la, họ Đạt côn, họ Ghi-đên,

họ Sê-pha-tia, họ Hát tinh, họ Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, và họ A-mi.

Tính chung những người phục dịch Đền Thờ và con cháu cựu thần Sa-lô-môn là 392 người.

Có một số người từ các thành Tên Mê-la, Tên Hạt-sa, Kê-rúp, A-đan, và Y-mê trở về Giê-ru-sa-lem, nhưng họ không còn gia phả hay bằng cớ về nguồn gốc tông tộc, để chứng minh họ là người Ít-ra-ên. Những người này gồm có: Họ Đê-la-gia, họ Tô-bia, và họ Nê-cô-đa, tổng cộng 652 người.

Cũng có con cháu của các thầy tế lễ trong ba họ Ha-ba-gia, Ha-cốt, và Bát-xi-lai. (Ông này cưới con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, và người ta gọi ông theo tên cha vợ.) Những người này cũng không tìm được gia phả, nên bị ngưng chức tế lễ.2:62 Nt thêm: vì không sạch Các nhà lãnh đạo cấm họ không được hưởng phần ăn thánh, vì các nhà lãnh đạo muốn chờ đến lúc cầu hỏi Chúa Hằng Hữu bằng cách dùng U-rim và Thu-mim2:63 Xem Xuất 28:30 để xem họ có thuộc dòng họ thầy tế lễ không.

Tổng số các nhóm kể trên lên đến 42.360 người. Ngoài ra, có 7.337 gia nhân và 200 ca sĩ, cả nam lẫn nữ. Họ đem theo 736 con ngựa, 245 con la, 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa.

Read More of E-xơ-ra 2