Числа 36 – CARS & VCB

Central Asian Russian Scriptures

Числа 36:1-13

Наследственный удел дочерей Целофхада

(Чис. 27:1‒11)

1Главы семейств из клана Галаада, сына Махира, из рода Манассы, которые вели свой род от Юсуфа, пришли и сказали Мусе и вождям, главам семейств исраильтян. 2Они сказали:

— Повелев нашему господину раздать по жребию землю в удел исраильтянам, Вечный велел тебе отдать удел нашего сородича Целофхада его дочерям. 3Но если они выйдут замуж в другие исраильские роды, их надел будет взят из надела наших отцов и присоединён к наделу рода, в котором они будут жёнами. Таким образом, часть надела, который достался нам, будет отнята. 4Когда у исраильтян настанет юбилейный год, эта часть будет также присоединена к наделу рода, в котором они будут жёнами, и их надел будет взят из родового надела наших отцов.

5Тогда по слову Вечного Муса дал исраильтянам повеление:

— Сказанное родом потомков Юсуфа — верно. 6Вечный повелевает о дочерях Целофхада: они могут выходить замуж за кого хотят, но только внутри клана, который принадлежит к роду их отцов. 7Наделы в Исраиле не должны переходить от одного рода к другому. Пусть каждый исраильтянин держит родовой надел, полученный от предков. 8Пусть дочери, которые владеют наделом в каждом исраильском роду, выходят замуж внутри клана, который принадлежит к роду их отцов, чтобы исраильтяне владели наделами своих предков. 9Надел не должен переходить из рода в род. Пусть все исраильские роды держат ту землю, которую получили в удел.

10Дочери Целофхада сделали, как повелел Мусе Вечный. 11Махла, Тирца, Хогла, Милка и Ноа, дочери Целофхада, вышли замуж за своих двоюродных братьев по отцу. 12Их мужья были из потомков Манассы, сына Юсуфа, и их надел остался за родом, к которому принадлежал клан их отца.

13Таковы повеления и законы, которые Вечный дал через Мусу исраильтянам на равнинах Моава у реки Иордан, напротив города Иерихона.

Vietnamese Contemporary Bible

Dân Số Ký 36:1-13

Những Phụ Nữ Được Thừa Hưởng Sản Nghiệp.

1Những người đứng đầu họ Ga-la-át, là con Ma-ki, cháu Ma-na-se, chắt Giô-sép, đến thưa với Môi-se và các trưởng tộc Ít-ra-ên: 2“Tuân lệnh Chúa Hằng Hữu, ông có chia đất cho Ít-ra-ên theo lối bốc thăm, và cũng có giao tài sản đất đai của anh chúng tôi là Xê-lô-phát cho các con của anh chúng tôi. 3Nếu các cháu lấy chồng là người thuộc đại tộc khác, phần đất của các cháu sẽ theo họ về đại tộc nhà chồng, và như vậy đất đai của chúng tôi sẽ bị thu hẹp. 4Đến Năm Hân Hỉ, đất cũng chẳng hoàn lại đại tộc chúng tôi, nhưng vĩnh viễn bị sáp nhập vào đại tộc khác.”

5Để giải quyết vấn đề này, Môi-se nhận lệnh Chúa Hằng Hữu, rồi nói lại cho người Ít-ra-ên như sau: “Các con cháu đại tộc Giô-sép trình bày hợp lý. 6Đây là lệnh của Chúa Hằng Hữu về vụ các con gái Xê-lô-phát: Họ được lấy ai làm chồng tùy ý, miễn là người chồng thuộc trong cùng một đại tộc. 7Như vậy đất đai sẽ không chuyền từ đại tộc này sang đại tộc khác, nhưng mỗi người sẽ giữ đất cho đại tộc mình. 8Mỗi người con gái nhận được đất đai làm tài sản, dù thuộc đại tộc nào, nếu lấy chồng, thì chồng phải là người trong cùng đại tộc, như vậy đất đai của đại tộc nào được giữ trong đại tộc ấy, chứ không chuyển sang đại tộc khác. 9Không một sản nghiệp nào được chuyển từ đại tộc này qua đại tộc khác, vì mỗi đại tộc Ít-ra-ên phải giữ đất đai mình đã thừa hưởng.”

10Các con gái Xê-lô-phát tuân theo lệnh của Chúa Hằng Hữu do Môi-se truyền lại. 11Các con gái của Xê-lô-phát là Mách-la, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca, và Nô-a, đều kết hôn với anh em chú bác của mình. 12Các cô lấy chồng trong cùng đại tộc Ma-na-se, con Giô-sép. Như vậy đất của họ vẫn thuộc về đại tộc này.

13Đó là những luật lệ của Chúa Hằng Hữu phán bảo Môi-se truyền cho Ít-ra-ên khi họ đang ở trong đồng bằng Mô-áp, bên Sông Giô-đan, đối diện Giê-ri-cô.