1Awurade asɛm a ɛbaa Petuel babarima Yoɛl so nie.
Ɛda A Ntutummɛ No Bɛba
2Montie saa asɛm yi, mo mpanimfoɔ;
montie, mo a mote asase no so nyinaa.
Asɛm bi a ɛte sɛi asi mo mmerɛ so
anaa mo mpanimfoɔ mmerɛ so pɛn?
3Monka nkyerɛ mo mma,
na mo mma nso nka nkyerɛ wɔn mma
na wɔn mma nso nka nkyerɛ awoɔ ntoatoasoɔ a ɛdi soɔ no.
4Deɛ ntutummɛ kuo no gyaeɛ no
ntutummɛ akɛseɛ no awe
deɛ ntutummɛ akɛseɛ no gyaeɛ no
ntutummɛ nkumaa no awe
deɛ ntutummɛ nkumaa no gyaeɛ no
ntutummɛ afoforɔ awe.
5Mo asabofoɔ, monyane, na monsu!
Mo a monom bobesa nyinaa, montwa adwo;
montwa adwo ɛfiri sɛ nsã foforɔ no
wɔayi afiri mo ano.
6Ɔman bi atu mʼasase so sa
ɛdɔm a wɔyɛ den na wɔntumi nkane wɔn;
wɔn se te sɛ gyata se
na wɔwɔ gyatabereɛ sebɔmmɔfoɔ.
7Wɔasɛe me bobe
ne me borɔdɔma nnua.
Wawaawae nnua no ho bona,
ato agu
agya ne mman a ayɛ fitaa hɔ.
8Di awerɛhoɔ sɛ ababaawa a ɔfira ayitoma
na ɔresu ne kunu a ɔwaree no ne mmabaawaberɛ mu.
9Aduane ne ahwiesa afɔrebɔdeɛ,
wɔayi afiri Awurade efie.
Asɔfoɔ no retwa adwoɔ,
wɔn a wɔsom wɔ Awurade anim no.
10Mfuo asɛe,
asase no so awo wesee
aduane no asɛe
nsã foforɔ no awe
ngo nyinaa asa.
11Mo ani nwu, mo akuafoɔ,
mo ntwa adwo, mo a modua bobe;
Monsi apinie mma ayuo ne atokoɔ,
ɛfiri sɛ otwaberɛ no asɛe.
12Bobe no akusa
na borɔdɔma nnua no awuwu.
Ateaa nnua, mmɛdua, aperɛ ne
nnua a ɛwɔ mfuo no so nyinaa ahye.
Nokorɛm, anigyeɛ a nnipa wɔ no
atu ayera.
13Momfira ayitoma na monni awerɛhoɔ, Ao asɔfoɔ;
mo a mosom afɔrebukyia anim, montwa adwo.
Momfira ayitoma mmɛsiri pɛ
mo a mosom Onyankopɔn anim;
ɛfiri sɛ aduane ne ahwiesa afɔrebɔdeɛ no
ɛto atwa wɔ Onyankopɔn efie.
14Mommɔ mmuadadie kronkron ho dawuro;
momfrɛ nhyiamu kronkron.
Monfrɛ mpanimfoɔ
ne wɔn a wɔte asase no so nyinaa
mmra Awurade mo Onyankopɔn efie
na wɔmmesu mfrɛ Awurade.
15Ɛda no aba!
Awurade ɛda no abɛn;
Ɛbɛba sɛ ɔsɛeɛ a ɛfiri Otumfoɔ hɔ.
16Yɛnnhunuu sɛ aduane ho ayɛ na,
sɛ anigyeɛ ne ahosɛpɛ nso to atwa
wɔ yɛn Onyankopɔn efie anaa?
17Aba no wu wɔ asase wesee mu,
adekoradan abubu,
aburopata nso ho nni mfasoɔ,
ɛfiri sɛ nnuane no ahye.
18Sɛdeɛ anantwie su!
Na anantwikuo kyinkyini kwa.
Nnwankuo mpo rebrɛ
ɛfiri sɛ wɔnni adidibea.
19Awurade, wo na mesu frɛ wo,
ɛfiri sɛ ogya ahye ɛserɛ so adidibea
na ogyaframa ahye mfuo no so nnua nyinaa.
20Wiram mmoa mpo pere hwehwɛ wo.
Nsuwansuwa awewe,
na ogya ahye ɛserɛ so adidibea.
1Chúa Hằng Hữu ban sứ điệp này cho Giô-ên, con trai của Phê-thu-ên.
Than Khóc về Nạn Châu Chấu
2Nghe đây, hỡi các lãnh đạo của toàn dân.
Hãy nghe, hỡi tất cả cư dân sống trong xứ.
Trong mọi thời của các ngươi,
có điều nào như thế xảy ra trước đó không?
3Hãy thuật lại cho con cháu các ngươi,
để con cháu các ngươi kể lại cho con cháu của chúng.
Tiếp tục truyền lại từ đời này sang đời khác.
4Sau khi sâu keo cắn phá mùa màng
thì cào cào ăn những gì còn lại!
Kế đến những gì cào cào bỏ lại, sâu lột vỏ ăn,
rồi những gì sót lại thì châu chấu sẽ ăn.
5Hãy tỉnh thức, hỡi những kẻ say sưa và khóc lóc!
Hãy sầu than, hỡi những kẻ nghiện rượu!
Vì các vườn nho bị tàn phá,
rượu nho ngon ngọt không còn nữa.
6Một đội quân châu chấu xâm lấn đất nước Ta,
một đạo quân kinh hoàng không đếm xuể.
Răng chúng như răng sư tử,
nanh như nanh sư tử cái.
7Chúng cắn nát các cây nho Ta
và tàn phá cây vả Ta,
chúng lột sạch từ gốc đến ngọn,
để trơ những cành trắng phếu.
8Hãy than khóc như thiếu phụ mặc bao gai
than khóc cho cái chết của chồng mình.
9Vì không còn lúa gạo và rượu nho
để dâng lễ trong Đền Thờ Chúa Hằng Hữu.
Vì vậy các thầy tế lễ đều sầu não,
những người phục vụ Chúa Hằng Hữu đều thở than.
10Đồng ruộng đã bị phá hoang,
đất vườn tiêu điều.
Lúa thóc bị hủy hoại,
nho bị héo khô,
và dầu ô-liu cũng cạn kiệt.
11Hãy tuyệt vọng, hỡi tất cả nông gia!
Hãy than van, hỡi những người trồng nho!
Hãy khóc lóc vì lúa mì và lúa mạch—
tất cả mùa màng ruộng đồng—đều đã mất hết.
12Các dây nho đã khô,
và cây vả đã héo.
Cây thạch lựu, cây chà là, và cây táo—
tất cả cây trái—đều đã úa tàn.
13Hãy mặc áo bao gai và kêu khóc, hỡi các thầy tế lễ!
Hãy than van, hỡi những người phục vụ nơi bàn thờ!
Hãy đến, mặc áo bao gai và than khóc suốt đêm,
hỡi những người phục vụ Đức Chúa Trời của tôi.
Vì không còn lễ chay và lễ quán
được dâng lên trong Đền Thờ Đức Chúa Trời các ngươi nữa.
14Hãy công bố1:14 Nt thánh hóa hoặc biệt riêng ngày kiêng ăn;
hãy kêu gọi toàn dân tham dự buổi lễ trọng thể.
Hãy mời các trưởng lão
và toàn thể dân chúng của xứ
vào Đền Thờ Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời của các ngươi,
và than khóc với Chúa tại đó.
15Ngày của Chúa Hằng Hữu đã gần,
ngày hủy diệt của Đấng Toàn Năng đã đến.
Ôi, ngày ấy đáng sợ biết bao!
16Thực phẩm chúng ta biến mất ngay trước mắt.
Không còn lễ hội vui mừng trong nhà của Đức Chúa Trời chúng ta.
17Hạt giống mục nát trong lòng đất,
và mùa màng thất thu.
Các kho thóc đều trống rỗng,
và các vựa lúa đều tan biến.
18Gia súc gầm rống lên vì đói!
Các bầy bò đi lang thang xiêu xẹo
vì không còn cỏ để ăn.
Các bầy chiên và bầy dê kêu trong đau đớn.
19Thưa Chúa Hằng Hữu, xin cứu giúp chúng con!
Lửa đã thiêu đốt các bãi cỏ ngoài đồng nội,
làm tàn rụi cây cối trong ruộng vườn.
20Các thú rừng cũng kêu van với Chúa
vì sông suối cạn nguồn,
và lửa đã thiêu nuốt đồng cỏ nơi hoang mạc.