1Saa nhoma yi fa adiyisɛm a Onyankopɔn de maa Yesu Kristo sɛ ɔnkyerɛ nʼasomfo nea ɛrebɛba no ho. Kristo somaa ne bɔfo kɔɔ nʼakoa Yohane nkyɛn kɔdaa asɛm yi adi kyerɛɛ no, 2sɛnea ɛbɛyɛ a Yohane bɛka biribiara a ohui. Eyi ne nʼadansedi ne asɛm a efi Onyankopɔn nkyɛn ne nokware a Yesu Kristo daa no adi no. 3Nhyira nka obiara a ɔbɛkenkan saa nhoma yi, na nhyira nka wɔn nso a wotie adiyisɛm no na wodi so sɛnea wɔakyerɛw wɔ saa nhoma yi mu no. Bere no abɛn.
Nkyia
4Yohane,
Nkyia a okyia asafo ahorow ason1.4 Na atetew ne ho bɛyɛ borɔfokwansin 50 a ayɛ Dantaban Asia atifi fam a etwa kɔ nifa so Efeso atifi fam na abɛyɛ Dantaban mua fi Laodikea (Efeso apuei fam). a ɛwɔ Asia no ni:
Adom ne asomdwoe a efi nea ɔwɔ hɔ, na ɔtenaa hɔ, na ɔreba no ne ahonhom ason a wɔwɔ nʼahengua anim, 5ne Yesu Kristo a ɔyɛ ɔdanseni nokwafo ne awufo mu abakan ne asase so ahene sodifo no nkyɛn nka mo.
Ɔdɔ yɛn, na ɔnam ne wu no so agye yɛn afi yɛn bɔne mu. 6Wayɛ yɛn ahemman ne asɔfo sɛ yɛnsom ne Nyankopɔn ne nʼAgya. Ɔno na wɔmfa anuonyam ne tumi mma no daa daa! Amen.
7Hwɛ, ɔnam omununkum mu reba.
Wɔn a wɔwɔɔ no peaw no
ne obiara behu no.
Asase so nnipa nyinaa besu no; ne nti
Ɛbɛba mu saa. Amen.
8Awurade Nyankopɔn Tumfo no se, “Mene Alfa ne Omega1.8 Hela nkyerɛwde a edi kan ne nea etwa to. Onyankopɔn yɛ mfiase ne awiei (21.6). Ne tumi di biribiara so wɔ adesa abakɔsɛm nyinaa mu. (22.13). a ɔwɔ hɔ mprempren na ɔwɔ hɔ dedaw na ɔyɛ nea ɔrebɛba no.”
9Me Yohane, a me ne mo nyinaa yɛ akyidifo. Yehu amane efisɛ Yesu ne yɛn hene, na ɔma yɛn ahoɔden wɔ ahohia mu. Esiane sɛ mekaa Onyankopɔn asɛm kaa nokware a Yesu daa no adi nti, wotwaa me asu de me kɔɔ Supɔw Patmo so. 10Awurade da no,1.10 Da a edi nnaawɔtwe no kan no kasakoa mu ne no. Wɔfrɛɛ da no saa, efisɛ saa da no na Yesu sɔre fii awufo mu. Saa da no ara nso na Kristofo hyiae (Hwɛ Aso 20.7) na wogyigyee tow (Hwɛ 1 Ko 16.2). Honhom no faa me na metee nne dennen bi a ɛte sɛ torobɛnto a ɛrebɔ wɔ mʼakyi. 11Ɛkae se, “Kyerɛw biribiara a wuhu, na fa nhoma no kɔma saa asafo ahorow ason a ɛwɔ Efeso ne Smirna ne Pergamo ne Tiatira ne Sardi ne Filadelfia ne Laodikea no.”
12Medan mʼani, pɛɛ sɛ mihu nea ɔrekasa kyerɛ me no. Ɛhɔ na mihuu sikakɔkɔɔ akaneadua ason. 13Na akaneadua no mfimfini na onipa bi a ɔte sɛ Onipa Ba a ɔhyɛ batakari yuu a esi nʼanan ase a sika abɔso kyekyere ne koko no gyina. 14Na ne tinwi yɛ fitaa te sɛ asaawamfuturu anaasɛ sukyerɛmma, na nʼani dɛw sɛ ogya. 15Ne nan ase hyerɛnee sɛ asanka a wɔanan wɔ fononoo mu na afei wɔatwiw ho na ne nne woro so te sɛ asuworoe a ano yɛ den. 16Na okura nsoromma ason wɔ ne nsa nifa mu na afoa anofanu a ɛyɛ nnam1.16 Saa afoa no kyerɛ honhom mu atemmu (Hwɛ Yes 49.2; Heb 4.12). fi nʼanom bae. Na nʼanim hyerɛn te sɛ owigyinae wia.
17Mihuu no no, mekɔhwee nʼanan ase te sɛ owufo. Ɔde ne nsa nifa too me so kae se, “Nsuro! Mene Ɔkannifo ne Okyikafo. 18Mene ɔteasefo no! Miwui, nanso mprempren mete ase daa daa. Mikura owu ne asaman safe.
19“Enti afei kyerɛw nneɛma a wuhu; nea wuhu no mprempren ne nea ɛbɛba akyiri no, kyerɛw. 20Nsoromma ason a wuhu wɔ me nsa nifa mu ne sika akaneadua no nkyerɛase a ɛyɛ ahintasɛm no ni; Nsoromma ason no yɛ asafo ason no abɔfo, na akaneadua ason no nso yɛ asafo ason no.”
1Đây là mặc khải của Chúa Cứu Thế Giê-xu mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài để bày tỏ cho các tôi tớ Ngài những việc sắp phải xảy ra. Ngài đã sai thiên sứ trình bày mặc khải này cho Giăng, tôi tớ Ngài. 2Giăng đã trung tín tường thuật mọi điều ông đã chứng kiến. Đây là bản tường thuật về lời của Đức Chúa Trời và về lời chứng của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
3Phước cho người đọc sách này cũng như người nghe và thực hành, vì kỳ hạn đã gần rồi.
Bảy Bức Thư
4Đây là thư của Giăng gửi cho bảy Hội Thánh xứ Tiểu Á.
Cầu chúc anh chị em được ơn phước và bình an từ Đức Chúa Trời, là Đấng đã có, hiện có, và còn đời đời, từ Chúa Thánh Linh ở trước ngai Ngài 5và từ Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngài là nhân chứng thành tín, Đấng sống lại đầu tiên từ cõi chết, và có uy quyền trên tất cả vua chúa trên thế gian.
Tất cả vinh quang thuộc về Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta, dùng máu Ngài tẩy sạch tội lỗi chúng ta. 6Chúa đã làm cho chúng ta trở nên công dân Vương Quốc Chúa, làm thầy tế lễ của Đức Chúa Trời là Cha. Cầu xin vinh quang và uy quyền thuộc về Ngài mãi mãi vô tận! A-men.
7Này! Ngài đến giữa áng mây
Mọi mắt sẽ trông thấy Ngài—
những người đã đâm Ngài cũng thấy.
Mọi dân tộc trên thế giới
sẽ khóc than vì Ngài.
Thật đúng như lời! A-men!
8Chúa là Đức Chúa Trời phán: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga—là đầu tiên và cuối cùng.1:8 An-pha và Ô-mê-ga là hai mẫu tự đầu và cuối của bảng mẫu tự Hy Lạp Ta là Đấng hiện có, đã có, và còn đời đời—là Đấng Toàn Năng.”
Khải Tượng về Con Người
9Tôi là Giăng, thân hữu của anh chị em, cùng chia sẻ hoạn nạn và dự phần trong Vương Quốc Đức Chúa Trời với anh chị em. Tôi ở tù trên đảo Bát-mô này, vì truyền giảng Đạo Đức Chúa Trời và làm chứng cho Chúa Giê-xu. 10Nhằm ngày của Chúa, tôi được Thánh Linh cảm và nghe có tiếng gọi sau lưng vang dội như tiếng loa: 11“Hãy ghi chép những điều con thấy và gửi cho bảy Hội Thánh tại Ê-phê-sô, Si-miệc-nơ, Bẹt-găm, Thi-a-ti-rơ, Sạt-đe, Phi-la-đen-phi, và Lao-đi-xê.”
12Quay lại để xem ai vừa nói, tôi thấy bảy giá đèn bằng vàng. 13Giữa các giá đèn có ai giống như Con Người, mặc áo dài, ngực thắt đai vàng. 14Tóc Ngài trắng như lông chiên, như tuyết, mắt sáng như ngọn lửa, 15chân như đồng sáng loáng trong lò, tiếng nói vang ầm như thác đổ. 16Tay phải Ngài cầm bảy ngôi sao, miệng có thanh gươm hai lưỡi sắc bén, mặt sáng rực như mặt trời chói lọi giữa trưa.
17Vừa thấy Chúa, tôi ngã xuống chân Ngài như chết. Nhưng Ngài đặt tay phải lên mình tôi, ôn tồn bảo: “Đừng sợ, Ta là Đầu Tiên và Cuối Cùng. 18Là Đấng Sống, Ta đã chết, nhưng nay Ta sống đời đời, giữ chìa khóa cõi chết và âm phủ.
19Vậy, hãy ghi chép những việc con vừa thấy và những việc sắp xảy ra. 20Đây là ý nghĩa bảy ngôi sao trong tay phải Ta và bảy giá đèn bằng vàng: Bảy ngôi sao là bảy thiên sứ của bảy Hội Thánh, còn bảy giá đèn là bảy Hội Thánh.”